Sự hợp tác là một trong những năng lực quan trọng mà học sinh cần có. Nhiều giáo viên đã sử dụng học tập hợp tác trong các lớp học của họ, phát triển các kĩ thuật thành một phương pháp dạy học tốt nhất – và chia sẻ chúng. Từ việc thành lập các nhóm học tập sử dụng phiếu “rubric” – một công cụ đánh giá, những ý tưởng này sẽ làm cho mọi bài học có sự hợp thực sự và trở nên vui vẻ! Những chia sẻ này bao gồm: một số mẹo của giáo viên, phiếu cho điểm nỗ lực hợp tác của học sinh, và nhiều tài liệu tham khảo khác.

Học tập hợp tác tạo nên thành công của tiết học

“Học sinh, giống như những người trưởng thành, là một phần của xã hội, và chúng muốn một số chọn lựa trong cuộc sống của mình”,Grerchen Lee nói với Education World. “Nếu chúng ta, một người trưởng thành, có một công việc mà làm việc giống như trong một lớp học truyền thống điển hình – ngồi im lặng, không nói chuyện, ghi bài, đọc sách giáo khoa, chỉ có ba phút thảnh thơi giữa các hoạt động và 20 phút cho ăn trưa, chúng ta sẽ không thể kéo dài điều này. Liệu có bao nhiêu người trong chúng ta muốn ở trong lớp học này?
Lee – một giáo viên ở trường Old Orchard Upper(California), sử dụng học tập hợp tác để dạy học sinh lớp sáu và lớp tám trong các môn nghệ thuật và lịch sử. Cô thích phương pháp dạy học này bởi nó thúc đẩy học sinh làm việc cùng nhau và chuẩn bị các kĩ năng cho các mối quan hệ xã hội.
Theo lời của Lee, “Trẻ cần học trong một bầu không khí xã hội, thử thách, không cạnh tranh, nơi học sinh cảm nhận được rằng chúng có cả lựa chọn và trách nhiệm. Nó cũng nên là một không gian nơi các phong cách học tập khác nhau được thiết lập và khuyến khích. Theo quan điểm của tôi, giáo viên nên là người tổ chức và hướng dẫn, không phải là người quyền thế trong lớp học”.
Những bài học có sự hợp tác được thiết kế thành công khi hoàn thành các mục tiêu như sau:
• Học sinh tự đặt ra mục tiêu cho bài học và phấn đấu để hoàn thành mục tiêu.
• Học sinh quyết định vai trò của mình trong việc đạt được mục tiêu.
• Học sinh thực hành các kĩ năng đàm phán và xã hội, đánh giá cả sự đóng góp của bản thân cũng như những thành viên của nhóm khác.
• Học sinh học để hợp tác và củng cố thế mạnh của nhau, quan sát mọi người với những thế mạnh khác nhau có thể hoàn thành các mục tiêu theo một cách khác hoặc hiệu quả hơn.
Trong khi đó, giáo viên được coi như một người hướng dẫn hữu ích, người ở đó để làm cho học sinh thành công, hơn là một thẩm phán chỉ biết cho điểm và đánh dấu mực đỏ vào vở của học sinh.
“Học sinh của tôi yêu các hoạt động học tập hợp tác”, Lee nói. “Những đứa trẻ ầm ĩ trong lớp học của tôi, chúng reo hò để biết điều chúng làm tiếp theo. Phấn khích lớn nhất là khi những chiếc bàn được sắp xếp thành các nhóm, và âm thanh lớn nhất là khi những chiếc bàn quay về vị trí cũ”.
Lý do cho sự hứng thú trong lớp học của Lee là một bài học gọi là “Thần thoại” mà Lee đã công bố trên mạng. Cô ấy cũng thiết kế một bài học thơ. Các bài học này yêu cầu làm việc cá nhân và phối hợp nhóm để tiến hành bài học một cách sâu sắc vượt ra ngoài những gì học sinh dễ dàng đạt được trong công việc toàn nhóm.

CHẤM ĐIỂM CHO NHÓM
Đánh giá các hoạt động học tập hợp tác là một thách thức cho các giáo viên. Với mỗi dự án, Lee chấm một điểm của cả nhóm, một điểm hàng ngày, và một điểm cá nhân cho làm việc nhóm. Trong việc thành lập các nhóm, Lee xáo trộn một cách ngẫu nhiên học sinh. Bởi vì cô sử dụng các bài tập nhóm thường xuyên, học sinh biết chúng sẽ ở trong một nhóm khác rất ngắn, điều này làm giảm sự phàn nàn của chúng.
“Mỗi ngày làm việc nhóm, tôi có một danh sách với các nhóm được liệt kê. Tôi dành hầu hết thời gian chỉ để quan sát các nhóm bên trong lớp” Lee nói. “Ở mỗi lần quan sát, tôi ghi lại bằng các kí hiệu ngắn về cách các cá nhân đang làm việc”.
“Học sinh phải thực sự biết đâu là những quy trình thực hiện của một dự án, hoặc là giáo viên phải lặp đi lặp lại hướng dẫn và không có thời gian cho sự quan sát” Lee bổ sung. “Mỗi đứa trẻ bắt đầu với điểm 10 hàng ngày, và tôi cộng hoặc trừ vào tổng điểm này, dựa trên những hành vi mà tôi nhìn thấy. Sau một vài tháng, điều này không thực sự cần thiết trong hầu hết các lớp học.”
Điểm một nhóm phụ thuộc vào một dự án hoặc một bài thuyết trình đã hoàn chỉnh, dựa theo những mục tiêu đã được thiết lập ban đầu. Lee phát triển các điểm cá nhân, nơi nhận được sự nhấn mạnh lớn nhất trong việc chấm điểm, từ các phiếu “tự đánh giá” cô đưa ra vào thời điểm cuối cùng của dự án. Mỗi học sinh giải thích vai trò của chúng trong các hoạt động và các thế mạnh cá nhân mà chúng đã thể hiện. Học sinh tự nhận một điểm trong khoảng từ 1 đến 10 và giải thích những việc chúng đã làm để xứng đáng với điểm số đó. Học sinh cũng cho điểm những người khác trong nhóm và viết những lời giải thích tương tự.
“Tôi thấy rằng học sinh thật thà đáng kinh ngạc trong cả tự đánh giá bản thân và đánh giá bạn của chúng” Lee nói, “Trong ba năm qua, tôi đã sử dụng phương pháp này và chỉ một học sinh từng lạm dụng nó trong một nỗ lực để gây rắc rối với một người khác. Bởi vì tôi đã cho cả lớp xem phiếu đánh giá của hầu hết các nhóm, điều này tạo điều kiện để học sinh thấy được điều gì đang diễn ra và dễ dàng điều chỉnh nó”.
Phương pháp chấm điểm của Lee động viên những học sinh làm việc chăm chỉ rằng những nỗ lực của chúng sẽ được đền đáp, ngay cả khi nếu điểm nhóm của chúng không giống như những gì chúng mong đợi. Những học sinh có ít động lực cũng nhanh học được rằng chúng cần đóng góp công sức nếu chúng muốn một điểm số mong muốn. Trước khi triển khai hệ thống chấm điểm này, một số học sinh của Lee đã được khắc phục tác phong việc nhóm không nghiêm túc, cô gợi ý rằng những đứa trẻ năng động sẽ làm việc của chúng để chắc chắn rằng nhóm của chúng sẽ đạt điểm cao.

TRÒ CHƠI CHO CÁC HOẠT ĐỘNG NHÓM
Aimee McCracken, giáo viên hệ thống trường công ở Perry, Ohio, có một phương pháp độc đáo của việc tạo ra các nhóm với các hoạt động học tập hợp tác trong lớp học của cô.
“Tôi cắt các câu chuyện tranh thành những phần nhỏ và đưa chúng cho học sinh của tôi” McCracken giải thích. “Chúng phải đi vòng quanh lớp học để tìm ra những phần còn lại của một câu chuyện, điều này dẫn đến hình thành một nhóm. Hoạt động này là cách dễ dàng để tạo ra các nhóm. Những đứa trẻ nghĩ rằng nó thật vui, vì thế không có lời phàn nàn nào!”.
Theo McCracken, học tập hợp tác là một cách tuyệt vời cho học sinh để làm việc cùng nhau trong các nhóm. “Học sinh nhìn thấy tầm quan trọng của việc thấu hiểu quan điểm và cảm giác của một người khác”, cô giải thích. “Chúng học được rằng làm việc với người khác không luôn luôn dễ dàng nhưng có nhiều lợi ích. Tôi làm việc với học sinh để giúp chúng hiểu rằng mỗi người có cách làm việc riêng của mình”.
“Khi học sinh là một phần của nhóm, chúng sẽ phải lắng nghe và học từ người khác cũng như chia sẻ những ý kiến của chúng” McCracken bổ sung. “Điều này thực sự là một sự chuẩn bị quan trọng cho các mối quan hệ xã hội sau này!”
McCraken cho rằng học tập hợp tác thực sự cần thiết để đưa vào lớp học. Cô tin rằng những trải nghiệm mang lại lợi ích cho tất cả học sinh – không chỉ những người có nhu cầu đặc biệt. Thông qua các hoạt động học tập hợp tác, học sinh trở thành giáo viên và dạy một người khác. Trẻ em cần được thử thách phải nghĩ ra những cách sáng tạo để dạy những học sinh khác, chúng cảm thấy mọi việc học trở nên thoải mái học vì chúng được học từ những người bạn của mình. Qua quá trình quan sát, McCracken nhận thấy rằng học sinh cảm thấy an toàn và không miễn cưỡng để chia sẽ cảm giác của chúng với những người khác trong lớp học.

GIAO TRÁCH NHIỆM
“Học sinh của tôi di chuyển vào các nhóm của chúng một cách tự nguyện, sẵn sàng để giải quyết các bài tập” Avis Breding – một giáo viên tại trường Jeannette Myhre nói. “Rất thú vị khi lắng nghe các nhóm thảo luận các câu hỏi và nhìn thấy cách học sinh tư duy và tiến bộ hơn khi thảo luận các vấn đề! Bạn có thể chọn ra những học sinh tốt nhất trong một nhóm tranh luận!”
Breding phân công vai trò cho các thành viên trong các hoạt động học tập hợp tác. Các công việc có thể là: lãnh đạo, thư ký, người giám sát, người động viên.
• Lãnh đạo – người chỉ đạo các hoạt động trong ngày ngay khi giáo viên đưa ra hướng dẫn.
• Thư ký: thành viên này phụ trách việc ghi chép cho cả nhóm, chúng sử dụng một tờ giấy để làm việc đó.
• Người động viên: Người này đưa ra các lời khen liên quan đến cách mà nhóm làm việc, ví dụ “Đó là một câu trả lời tốt!”.
• Người giám sát: thành viên này có nhiệm vụ kiểm tra tiến độ và điều chỉnh những công việc của nhóm.
Breding tin rằng học tập hợp tác làm cho lớp học của cô trở nên thành một nơi thân thiện hơn và cách dạy của cô thu hút sự chú ý của nhiều học sinh. “Tôi đã thấy học sinh của tôi nhận thức được học tập hợp tác dạy cho chúng rằng mỗi người đều có một tài năng mà chúng không thể nhìn thấy” cô giải thích. “Một lợi ích khác là học sinh học tập tốt hơn từ một người khác và học thông qua thảo luận trong nhóm. Cuối cùng, tất cả học sinh làm việc và học tập trong các nhóm, nơi mà nếu bạn là một người chỉ biết giảng giải, sẽ có một số không lắng nghe bạn nói bởi đây là môi trường của sự chia sẻ”.

DỰ ÁN HỢP TÁC ABCs
Ngôi trường Lenora Grade ở Lennora, Kansas rất nhỏ. Khi Bonita Slipke được kí hợp đồng giảng dạy, cô được thông báo rằng công việc của cô chỉ kéo dài một năm, nhưng sau đó mười năm, cỗ vẫn ở đó. Quy mô trung bình của mỗi lớp học là 8 học sinh, và tổng học sinh khối 12 nhập học là dưới 100 học sinh. Slipke nói rằng đây là điều kiện để cô áp dụng học tập hợp tác trong lớp học của mình.
Một hoạt động hợp tác yêu thích trong lớp của Slipke dự án hợp tác ABCs. Dự án là một bảng thông báo mà có thể được duy trì trong suốt năm học. Slipke tổ chức học sinh trong các cặp đôi và phân phát cho mỗi cặp đôi những chữ cái trong bảng chữ cái. Mỗi cặp học sinh phát triển một đặc trưng của sự hợp tác mà bắt đầu với chữ cái được chỉ định, dán các chữ cái lên bảng thông báo và viết đặc trưng hợp tác tương ứng bên cạnh chữ cái đó.
“Tôi đã sử dụng ý tưởng ABCs vào năm nay trong lớp học của tôi, nhưng tôi đã làm nó trong một cách khác biệt”, Slipke giải thích. “Tôi làm thiết kế hình vuông với 26 mảnh ghép. Mỗi mảnh ghép đại diện cho một chữ cái của bảng chữ cái. Tôi tổ chức một cuộc thảo luận lớp học về sự hợp tác và tầm quan trọng của nó khi làm việc trong dự án hoặc bất kì điều gì cùng nhau. Sau đó, đã có một số học sinh tạo nên một ABCs về sự hợp tác. Mỗi học sinh chịu trách nhiệm với một chữ cái bất kì. Chúng viết các chữ cái trên những mảnh ghép và trang trí chúng tùy theo ý muốn.
“Khi tất cả 26 mảnh ghép đã hoàn thành, học sinh làm việc cùng nhau để lắp ráp các mảnh ghép” Slipke bổ sung. “Sau đó tôi cho học sinh kí tên lên những mảnh ghép của mình. Tiếp đến tôi sử dụng sản phẩm như một màn hình hiển thị trong lớp học của tôi. Nó được đặt ở trước cửa lớp học, nơi tất cả học sinh có thể nhìn thấy nó ở mọi thời điểm. Tôi hoàn thành dự án này vào ngày đầu tiên hoặc thứ hai khi năm học mới bắt đầu”.
Hoạt động học tập hợp tác khác mà Slipke sử dụng là một vấn đề mở và dài hạn. Học sinh làm việc trong các nhóm bốn người. Chúng sử dụng một kế hoạch giải quyết vấn đề và làm việc cùng nhau trong thời gian ở trường cũng như ở ngoài lớp học. Ví dụ một vấn đề gần đây: Sẽ rẻ hơn nếu đi từ Lenora đến New Yord bằng xe hơi, bus, hoặc máy bay? Học sinh trình bày tất cả các kế hoạch của chúng và tất cả những công việc chúng làm với mỗi một phương thức vận chuyện. Các nhóm có một chút rắc rối lúc khởi đầu nhưng về gần cuối, dự án diễn ra khá tốt.

ĐÁNH GIÁ SỰ HỢP TÁC
“Không có một cách chính xác để học tập hợp tác. Điều quan trọng là hãy thử nghiệm nó và điều chỉnh để phù hợp với học sinh của bạn. Một số lớp học cần nhiều sự giúp đỡ và hướng dẫn hơn các lớp khác”- Howard Miller (Phó giáo sư và là giảng viên trường đại học Lincoln).
“Dạy học sinh cách để làm việc thành công trong các nhóm, quan trọng như những gì chúng tạo ra trong nhóm của chúng” “Điều thực sự quan trọng là chia nhỏ các nhiệm vụ liên quan để làm việc nhóm thành công và giúp học sinh hiểu rằng bạn mong đợi gì từ chúng”.
Miller cảm nhận rằng học tập hợp tác có nhiều lợi ích. Nó dạy học sinh cách để trở nên tự lập và phụ thuộc vào nhau thay vì chỉ phụ thuộc vào giáo viên. Nó cũng cho học sinh thấy cách để làm việc hợp tác với những người khác nhằm hoàn thành các nhiệm vụ, rằng lợi ích đến từ nhiều cái đầu khi làm việc cùng nhau. Học tập hợp tác cung cấp một cơ hội cho nhiều học sinh được tham gia trực tiếp, khi thảo luận trong các nhóm nhỏ trước khi thảo luận ở nhóm lớn.
Miller gợi ý sử dụng phiếu rubric để cho điểm học sinh trong các bài học hợp tác.
Một phương pháp đánh giá khác mà Miller đã miêu tả gọi là “fishbowling”. “Trong kĩ thuật này, một nhóm tiến hành một cuộc thảo luận trong một vòng tròn ở trung tâm lớp học. Những học sinh còn lại sẽ đứng xung quanh nhóm đó và ghi chép về những gì chúng thấy đang diễn ra với điều kiện thực hành nhóm có hiệu quả. Sau đó, cả lớp sẽ phân tích những gì đã diễn ra và xác định những đặc điểm tích cực”.
Sử dụng các nhóm để đánh giá những nhóm tiến hành hoạt động hợp tác trong vòng tròn và thậm chí cả những nhiệm vụ truyền thống sẽ giúp việc chấm điểm không chỉ còn là công việc độc quyền của giáo viên.
Người dịch: Nguyễn Văn Vương – Nguyễn Hữu Long
Nguồn: http://www.educationworld.com/a_curr/curr287.shtml