Thuật ngữ cá nhân hóa và cá thể hóa thường được sử dụng tương đương nhau trong quá trình giảng dạy. Mặc dù cả hai khái niệm đều hỗ trợ đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh nhưng chúng phục vụ các mục đích khác nhau. Đối với nhiều giáo viên, việc này giống như một bài tập phân biệt ngữ nghĩa trong môn ngữ văn. Tuy nhiên, sự khác biệt trong vận dụng thực tiễn hai khái niệm cá nhân hóa và cá thể hóa có thể giúp cải thiện kế hoạch bài giảng của giáo viên và tạo nên các chiến lược mới trong việc đáp ứng nhu cầu của tất cả học sinh.

Phân hóa là ống kính cho các công cụ và nguồn lực để đáp ứng nhu cầu của người học. Cá nhân hóa và cá thể hóa là các phương pháp tiếp cận để tạo điều kiện tốt nhất cho sự thành công của học sinh – đạt được các mục tiêu học tập.

Sự phân hóa được xác định

Tốt nhất là bắt đầu với một cấu trúc chung cho việc đi sâu vào việc đào luyện kiến thức thông qua sự phân hóa. Trong thực tế, sự phân hóa tập trung vào đáp ứng nhu cầu của tất cả người học, bắt đầu thông qua việc đánh giá các kỹ năng hiện tại. Lorna Earl giải thích rất rõ về mối quan hệ giữa đánh giá và phân hóa:

“Sự phân hóa là đảm bảo các học sinh có các nhiệm vụ học tập phù hợp vào thời điểm phù hợp. Một khi bạn nhận thức được mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh là “đã nắm được” hoặc “biết” và những gì họ cần để học, sự phân hóa không còn là một lựa chọn; nó là một phản hồi rõ ràng ”(Đánh giá là Học tập: Sử dụng đánh giá lớp học để tối đa hóa năng lực học tập của học sinh).

Sự phân hóa trong thực tiễn: trực quan và có chủ ý

Có hai cách tiếp cận để thực hành phân hóa: trực quan và có chủ ý. Khi được sử dụng đồng thời, việc thực hiện cá nhân hóa và cá thể hóa có thể đạt hiệu quả.

Sự phân hóa trực quan xảy ra trong khoảnh khắc giáo viên đang giảng dạy. Giáo viên thực hiện các điều chỉnh dựa trên “cách“ sinh viên phản hồi — hoặc không phản hồi — với kế hoạch (John McCarthy, Vì vậy tất cả có thể học: Hướng dẫn thực tế về phân hóa). Một kỹ năng cốt lõi của giáo viên là điều chỉnh việc dạy khi một số học sinh dường như bị tụt lại hoặc cảm thấy bài học quá dễ.

Sự phân hóa có chủ ý xảy ra trong quá trình lập kế hoạch bài học. Lập kế hoạch trước cho phép giáo viên “phản ánh và hiện thực hóa các yếu tố phân hóa thành các bài học và cung cấp, hỗ trợ chiến lược cho việc học của học sinh” (John McCarthy, 2017). Nếu chúng ta biết học sinh có khả năng phản hồi tiêu cực với bài học sắp tới hoặc họ đã học các kỹ năng đó rồi, việc phân hóa trước dựa trên dữ liệu đánh giá là cần thiết để tạo cơ hội thành công hơn cho người học. Một khi kế hoạch được vạch ra từ sự phân hóa có chủ ý, giáo viên sẽ chuẩn bị các câu trả lời cho các nhu cầu có thể dự đoán của người học, như các hoạt động liên quan đến kỹ năng vốn có của học sinh, năng lực thiết kế đồ họa và / hoặc cơ hội để học sinh thể hiện sự hiểu biết của họ. Trong bối cảnh của sự phân hóa, cá nhân hóa và cá thể hóa có thể được sử dụng một cách rõ ràng hơn.

Cá thể hóa việc học

Cá thể hóa việc học gần như được sử dụng nhiều nhất. Đây là phương pháp trong đó giáo viên làm trung tâm. Giáo viên xem xét hồ sơ đánh giá để định hướng cho các nhu cầu chung của nhóm, cả lớp hoặc nhóm nhỏ. Ví dụ, học sinh làm việc về nghiên cứu và viết có thể được xác định thành các nhóm dựa trên trình độ kỹ năng viết chi tiết, từ liệt kê đến sử dụng dẫn chứng.

Khi tiến hành cá thể hóa, giáo viên phát triển các thiết kế hỗ trợ, sử dụng dữ liệu của học sinh. Học sinh có thể được lựa chọn, nhưng nói chung chúng không được liên quan đến quá trình viết. Cách tiếp cận trong đó giáo viên làm trung tâm này là hữu ích khi các khung và sự điều chỉnh có thể bao quát nhu cầu chung của học sinh.

Các trải nghiệm học tập có thể được phân hóa theo nhiều cách:

  • Cả lớp

Giáo viên cung cấp một loạt các thiết kế đồ họa và các công cụ khác cho học sinh dựa trên nhu cầu của họ, trong khi tiến hành một thí nghiệm trong toàn bộ lớp học. Bài học cũng có thể bao gồm chiến thuật hình ghép hoặc cặp đôi để khuyến khích học sinh hỗ trợ tư duy cho nhau trong suốt bài học trên lớp.

  • Nhóm nhỏ và cá nhân

Giáo án tập trung vào các hoạt động mà học sinh luân phiên thực hiện bao gồm các thư mục, mỗi cái liên quan đến nhu cầu của các nhóm học sinh. Các thực mục cũng có thể làm trên máy tính để thêm nhiều tùy chọn hơn và giải quyết mọi thách thức về không gian phòng học. Giáo viên có thể di chuyển xung quanh lớp để hỗ trợ khi cần thiết hoặc dẫn dắt một hoạt động để tiếp cận và hỗ trợ các nhóm hoặc cá nhân.

  • Dựa trên lựa chọn

Giáo viên thiết kế và đưa ra các tùy chọn. Học sinh lựa chọn trong số đó, điều này tạo điều kiện cho họ làm chủ trải nghiệm học tập của bản thân. Lựa chọn là một phương thức lắng nghe quan điểm thực sự từ học sinh, điều này thường được bồi dưỡng thông qua học tập cá nhân.

Các ví dụ khác về cá nhân hóa có thể bao gồm Đọc sách hướng dẫn và các nhóm hoặc lớp Toán phân theo trình độ. Thông thường, khi suy nghĩ về các kỹ năng vốn có của người học, chúng ta nhóm chúng lại dựa trên kết quả đánh giá. Đó là cách giáo viên phân hóa dựa trên nhu cầu chung. Giáo viên sử dụng sở thích và hứng học tập của học sinh để lập kế hoạch bài học và phát triển đơn vị kiến thức. Trong mỗi trường hợp, khi giáo viên thúc đẩy công việc phát triển, được củng cố bởi hồ sơ đánh giá, kết quả có thể là cá thể hóa chất lượng cao.

Cá nhân hóa việc học

Cá nhân hóa lí tưởng nhất là cho người học tham gia kiến tạo vốn hiểu biết của họ. Học sinh có những kỹ năng và kinh nghiệm sống nào, chúng có thể được vận dụng để tiếp thu các khái niệm và kỹ năng như thế nào? Vốn tích lũy của học sinh được sử dụng cùng với hồ sơ đánh giá học tập để thiết kế trải nghiệm học tập liên quan đến điểm mạnh và sở thích của học sinh.

Ví dụ, hãy để học sinh thiết kế các bài tập về nhà và tiêu chuẩn đánh giá của họ, dưới sự định hướng về các tiêu chuẩn học tập của giáo viên. Bước đầu tiên đơn giản là cho học sinh hai lựa chọn do giáo viên thiết kế. Sau đó, cho họ một lựa chọn thứ ba để họ phát triển ý tưởng riêng. Giáo viên lắng nghe ý kiến của học sinh. Thiết kế có thể được chấp nhận, sửa đổi hoặc gửi lại cho học sinh để phát triển một ý tưởng mới. Nếu ý kiến của học sinh không được chấp thuận trong một khung thời gian cụ thể, họ phải chọn trong các tùy chọn do giáo viên thiết kế.

Cho học sinh tham gia quá trình phát triển bài học hoặc đánh giá ban đầu sẽ mất nhiều thời gian nhưng về lâu dài lại có thể tiết kiệm thời gian, bởi vì các kết nối học tập chặt chẽ hơn với sự tham gia tích cực của học sinh. Cho học sinh tham gia quá trình lập kế hoạch tạo điều kiện để họ nảy ra những ý tưởng mà “họ” biết sẽ có ích cho các kết nối học tập, tăng cường khả năng tiếp thu và thúc đẩy họ khi cần. Tất cả những điều này đều khả thi vì học sinh chia sẻ trong quá trình lập kế hoạch.

Sự phân hóa đáp ứng nhu cầu của mọi người

Cá nhân hóa và cá thể hóa đều tốt cho việc đáp ứng nhu cầu của người học. Mặc dù có thể có những tranh luận của những người ủng hộ ở cả hai phía nhưng vấn đề là sự phân hóa đối với những gì học sinh cần đạt được. Trang web như, Học tập cá nhân hóa, đưa ra một quan điểm tương tự, với nhận thức góp phần cải thiện thành tích của học sinh. Lựa chọn tốt nhất sẽ tùy thuộc vào ngưỡng thoải mái của giáo viên khi lập kế hoạch và cách học sinh có thể phản hồi tốt nhất.

Cá thể hóa là sự lựa chọn phổ biến của giáo viên, bởi vì có vẻ như công tác quản lý và lập kế hoạch nhanh hơn với chỉ một người, giáo viên. Có thể cho rằng, cá thể hóa dựa trên kết quả đánh giá có vẻ được sử dụng cho nhiều nhu cầu hàng ngày của học sinh. Cá nhân hóa thì đòi hỏi giáo viên sẵn sàng từ bỏ ít nhất một số quyền quản lí của họ. Khi một học sinh tham gia kiến tạo sự đánh giá, giáo viên không thể lường trước được các ý kiến của họ. Không cần phải thuyết phục học sinh rằng trải nghiệm học tập sẽ tốt cho họ, bởi vì họ đã góp phần đưa ra lựa chọn.

Trong lần lập kế hoạch phân hóa có chủ ý tiếp theo, hãy suy nghĩ xem việc cá nhân hóa hay cá thể hóa là cách tiếp cận tốt nhất cho bài học. Dù bạn chọn phương pháp nào, dựa trên hồ sơ đánh giá, thì cũng phải tốt cho học sinh.

John McCarthy

Đặng Thanh Hiền- TGD dịch